Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

Cách phân biệt mật ong thật hay giả



Mật ong có tên khoa học là mel, là một chất lỏng hơi sền sệt, màu vàng hơi nâu, vị ngọt, mùi thơm, là mật của nhiều loại hoa do các loài ong khác nhau, hút và tinh luyện bằng chính một loại dịch của nó tạo thành. Mật ong là thức ăn tự nhiên bổ sung cho những thiếu sót của các thực phẩm khác.
Mật ong - thuốc thiên nhiên và thức ăn bổ dưỡng tuyệt vời
 
Mật ong có tên khoa học là mel, là một chất lỏng hơi sền sệt, màu vàng hơi nâu, vị ngọt, mùi thơm, là mật của nhiều loại hoa do các loài ong khác nhau, hút và tinh luyện bằng chính một loại dịch của nó tạo thành. Mật ong là thức ăn tự nhiên bổ sung cho những thiếu sót của các thực phẩm khác.
Ong là côn trùng có ích, chăm chỉ, có đời sống tổ chức rất cao và hoàn hảo. Có nhiều loại ong cho mật thuộc chi Apis, thuộc họ ong Apidae, lớp cánh mỏng.
Mật ong có tính sát khuẩn cao, đơn giản vì hàm lượng kali trong mật ong rất cao mà i-on kali lại ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn rất tốt. Trong mật ong các loại vi-rút, vi khuẩn chỉ có thể tồn tại từ vài giờ đến vài ngày: Vi-rút thương hàn (typhoid) - 48h, phó thương hàn (paratyphoide) A&B - 24h, liên cầu khuẩn gây viêm phế quản tồn tại trong 4 ngày.
 
Mật ong thay đổi tùy theo từng vùng, từng mùa và từng loại hoa mà ong hút mật mang về. Nếu vùng nào có nhiều loài hoa độc như hoa phụ tử, hoa thuốc phiện... thì khi sử dụng mật ong vùng đó phải hết sức cẩn thận. Những loại mật này có thể có tác dụng hơn, song cũng là thứ dễ gây ngộ độc.
Việt Nam ta chưa có thói quen ghi nơi thu hoạch trên nhãn của mật ong và cũng không có cảnh báo về vùng nuôi có những cây cỏ độc. Vì vậy, mặc dù là thức ăn bổ dưỡng, nhưng mật ong có thể gây ngộ độc cho người. Nếu dùng cho con trẻ - nhất là trẻ sơ sinh, phải hết sức cẩn thận.
Thành phần của mật ong
Mật ong là mật hoa được ong tinh luyện bằng chính một loại men của nó, nên mật ong thật và nguyên chất không bao giờ bị mốc, chua, biến đổi mùi vị... Mật hoa thường có từ 40 - 80% là nước, mật ong lượng nước chỉ chiếm 15-20%.
Mật ong có hai loại: Mật ong thường và mật ong chúa (sữa ong chúa)
Mật ong thường có 60-70% glucoza và levuloza, 2-35% sacaroza, mật ong nuôi bằng đường hoặc mật, lượng sacaroza có thể tới 10% hoặc cao hơn vì con ong không đủ men để biến sacaroza thành đường đơn.
Ngoài ra, trong mật ong còn có muối vô cơ, các axit hữu cơ như axit formic, axetic, tactarie, malic,...Có men tiêu hoá chất béo (lipaza), men thủy phân đường (invectin), một ít tinh bột, sáp, sắc tố, chất thơm, phấn hoa...
Mật ong chúa hay sữa ong chúa: tỉ lệ đường ít hơn, giàu chất mỡ, chất đạm ở dạng acid amin và vitamin. Sữa ong chúa dùng để nuôi ấu trùng sau nở ra ong chúa có thời gian sống lâu gấp 50 lần ong thợ và đặc biệt là có khả năng sinh sản.
Tác dụng của mật ong
Mật ong là một vị thuốc bổ. Người già hay trẻ, nếu mỗi ngày dùng từ 10-20g mật ong sẽ khỏe mạnh, ít bệnh tật.
Mật ong có tác dụng là giảm độ axit của dạ dày, nên giảm các cơn đau do viêm loét dạ dày, hành tá trang; thường được dùng kết hợp trong điều trị viêm loét dạ dày, hành tá tràng.
Mật ong có tác dụng ức chế và diệt khuẩn. Khi bị một vết thương ngoài da hay mụn nhọt, dùng mật ong bôi một lớp rồi băng kín lại, vết thương sẽ không bị nhiễm trùng và mau lành.
Mật ong là thực phẩm tốt với hệ tim mạch. Trong hệ tuần hoàn chỉ có tim là cần dùng đường để làm chất kích thích. Mật ong có 2 loại đường đơn là glucoza khoảng 40% được hấp thụ ngay vào máu, còn khoảng 34% là fructoza (levuloza) được chuyển hóa chậm hơn, đóng vai trò điều tiết hoạt động và phòng chống tình trạng qúa tải sinh tim hồi hộp, đập nhanh.
Theo Y học cổ truyền
Mật ong có vị ngọt, tính bình, 5 kinh phế, vị, tâm, tỳ và đại tràng. Có tác dụng thanh nhiệt, bổ trung, nhuận táo, hoạt tràng, giải độc, giảm đau.
Dùng chữa tỳ vị hư nhược, táo bón, ho lâu ngày, ho lao, đau dạ dày, giải độc, dùng ngoài chữa lở loét, mụn độc.
Hiện nay mật ong được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, làm thức ăn bổ dưỡng cho người lớn và trẻ em, chữa bệnh viêm loét dạ dày, hành tá tràng (trộn với bột nghệ, hoặc bột tam thất); làm thuốc ho: uống riêng hay hấp với chanhh, quất, hoa hồng bạch, gừng; chữa mất ngủ uống 20ml mật ong với nước ấm trước khi đi ngủ).

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

Thành phần dinh dưỡng của mật ong



Do ong mật lấy mật hoa từ nhiều nguồn hoa khác nhau nên thành phần của mật ong cũng có những yếu tố khác nhau nhất định.

1. Hàm lượng nước

Hàm lượng thủy phân nói chung trong mật ong là 16% - 25%, mật ong chín kỹ thì hàm lượng dưới 18%. Hàm lượng nước trong mật ong càng ít thì chứng tỏ đẳng cấp chất lượng của mật ong càng cao.
2. Hợp chất các bon hóa nước (tức là hợp chất đường)

Hợp chất đường trong mật ong chiếm 70% - 80% trong đó đường hoa quả và Glucoza là chính, chiếm tổng giá trị đường là 80% - 90%. Ngoài ra còn có đường kép và đường đa tố như: đường mía, đường mạch nha, đường bông, hồ tinh, đường tùng tam v.v…
Lượng đường mía trong mật ong khá ít không quá 5%, dựa vào yếu tố này có thể xác định làm căn cứ mật ong có phải là giả hay không?
Trong mật ong tỷ lệ đường Glucoza và đường hoa quả khác nhau phụ thuộc vào mật hoa khác nhau, cơ bản thì lượng đường hoa quả cao hơn Glucoza. Ngoài ra do đường hoa quả trong mật ong ngọt hơn nhiều so với đường mía và Glucoza, cho nên nếu lọc mật ong thành một độ đặc như nhau giữa các loại đường đó thì mật ong nói chung vẫn ngọt hơn cả đường phèn có cùng nồng độ. Thông thường đường mía có độ ngọt 100, thì đường quả có độ ngọt 175, Glucoza là 74.
Sự hợp thành đường Glucoza trong mật ong khác nhau quyết định chủ yếu ở nguồn gốc mật hoa. Chuyên gia Úc đã từng phân tích sự hợp thành của thành phần đường trong mật hoa, kết quả cho thấy: đường quả 48%, đường Glucoza: 40%, đường hạt bông 1%.
Do mật ong là một loại nước đường có nồng độ cao, lượng nhiệt sản sinh ra rất cao, cứ 1000g mật ong sinh ra lượng nhiệt 3280 calo, tạo thành một loại sản phẩm cực tốt cho tăng lực bổ khí. Thành phần trong mật ong hầu như là đường đơn (gồm đường quả và Glucoza), vì vậy khi ăn mật ong, trong đó Glucoza có thể được cơ thể hấp thụ trực tiếp, đường quả cũng sẽ chuyển hóa rất nhanh thành glucoza hấp thụ vào cơ thể, trực tiếp trở thành năng lượng của việc hoạt động gân cốt cơ thể.
3. Chất khoáng

Hàm lượng khoáng chất trong mật ong thông thường là 0,04% - 0,06% gồm: sắt, đồng, kali, natri, thiếc, mangan, magiê, canxi v.v…mật đậm màu bao giờ cũng nhiều khoáng chất hơn mật nhạt màu. Lượng khoáng chất trong mật ong tuy không cao, song với lượng khoáng chất ấy đã là rất hiếm thấy ở các loại thực phẩm khác rồi.
4. Độ chua (độ axit)

Tính chua trong mật ong yếu, do độ ngọt của mật ong cao, nên vị chua hầu như bị át đi, thường nếm bình thường khó phát hiện ra độ chua của nó.
Hiện nay, đã giám định được 16 loại chất tính chua trong mật ong, phần lớn là axit hữu cơ như: vị chua của chanh, vị chua của táo, hổ phách, nho, sữa, axit amin v.v…nhưng cũng có tính của axit vô cơ như: axit fotforic, axit clohydric v.v…
(xem tiếp phần 2)

Nguồn:  suaongchuavn

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

NGUỒN GỐC CỦA MẬT ONG




Về lịch sử mật ong cho đến nay vẫn chưa rõ, nhưng căn cứ vào tài liệu cổ để lại thì dự đoán có thể bắt đầu từ thời đại đồ đá cũ.

Thời kỳ đó con người đi săn thú để ăn thịt, mật ong lấy được không làm gia vị mà về ủ thành rượu mật ong, cách này đã lưu truyền cho tới ngày nay.
Từ “tháng mật” trong từ điển giải thích là “Vợ chồng mới cưới nhau 1 tháng hoặc 2 tháng” mà không giải thích gì khác. Thực ra “tháng mật” là một tập tục sống của dân tộc Giec-man, từ đó mà sản sinh ra từ ngữ này, chỉ về cặp vợ chồng mới cưới trong 1 tháng cùng nhau hưởng rượu mật ong và sống tháng ngọt ngào tình cảm.
Rượu mật này không có một cách phối chế đặc thù nào khác, chỉ là loại rượu trải qua ủ mật lên men và tạo thành rượu. Loại này thời kỳ ấy, nơi thịnh hành sử dụng nhất là Ai Cập và Hy Lạp. Sau này sinh ra nhiều loại rượu khác như rượu nho, bia… nhiều nơi ở châu Âu ngày nay vẫn còn ủ rượu mật ong và coi nó là đặc sản của địa phương.
Thông thường dùng mật ong không hề xảy ra tác dụng phụ, lại còn có thể phòng ngừa bí tiện, tăng thể lực, xúc tiến trao đổi chất của con người. Cho nên từ xưa tới nay, mật ong được coi là một linh đơn kéo dài tuổi thanh xuân, trường thọ, được con người yêu quý.
Lịch sử sản xuất mật ong không sớm hơn mấy so với sản xuất tơ tằm, hơn nữa việc nuôi ong lấy mật đơn giản hơn nhiều nuôi tằm kéo kèn làm tơ lụa. “học thuyết nguồn gốc mật ong Á châu mới” có nói tới nơi khởi nguồn ở Trung Quốc là vùng Tây – Nam, từ đó suy ra nguồn gốc mật ong Đông – Tây phương cũng được khởi nguồn từ vùng Tây Nam Trung Quốc từ hơn một triệu năm về trước, và đã trải qua nhiều năm tháng thăng trầm phát triển. Khoảng 60 triệu năm trước thực vật tiến hóa từ đơn bào thành đa bào, theo quá trình đó, côn trùng truyền phấn hoa cũng phát triển theo và trong đó có cả ong mật. Vòa thời kỳ đồ đá trung đại 7000 năm trước, loài người đã có để lại hình ảnh trèo núi lấy mật trên các tranh khắc ở vách đá trong động. Vào thời kỳ Trụ Vương cũng đã có mật ong. Thế kỷ 2 trước công nguyên, trong Thần nông bản thảo kinh đã cùng một lúc đề cập đến mật ong và sáp ong là thượng phẩm của nguyên liệu chế thuốc, chứng tỏ ở Trung Quốc từ hơn 2000 năm trước người ta đã biết ăn mật ong và dùng mật ong như một loại dược liệu “thượng phẩm”.


Năm 1913, các nhà khảo cổ học trong Kim Tự Tháp Ai Cập đã đào được rất nhiều các âu đựng từ 3300 năm trước trong đó có chứa đầy mật ong, mở ra xem thì mật ong này vẫn còn nguyên chất chưa hề thay đổi, mùi vị vẫn thơm và công dụng vẫn tốt.

Người Ai Cập còn dùng mật ong để sát trùng, dùng mật ong để ướp xác, có thể giữ cho thi thể các quân vương nữ chúa tồn tại với thời gian, mà hậu thế chúng ta đã tận mắt nhìn thấy qua các xác ướp cổ đại từ trong Kim Tự Tháp. Phự nữ Hy Lạp thì dùng mật ong bôi lên trên mặt và da để làm mỹ phẩm, có lẽ vì thế mà người ta vẫn nói phụ nữ Hy Lạp có làn da mịn màng, nhan sắc kiều diễm có quan hệ với mật ong rất chặt chẽ.
Tóm lại, qua nhiều thế kỷ, đến nay, mật ong vẫn được coi là phần thưởng của thiên nhiên ban tặng cho con người, là một dược liệu quý cho mọi người già trẻ gái trai để giữ tuổi trẻ và kéo dài tuổi thọ. Từ thời nhà Chu, nó được làm đồ cống tiến triều đình Vũ vương, nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên trong thiên Chiêu hồn cũng tả về mật ong; các danh y thời chiến quốc, trong đó tiêu biểu là Biển Thước đã dùng mật ong để chữa bệnh.
Ở nước ngoài, mật ong cũng được coi là sản phẩm quý. Trong các tác phẩm văn học Ấn Độ, mật ong được coi là “một vật kỳ lạ giữ tuổi xuân và làm cho con người khoái lạc”, “Gia hòa – Phệ Đà kinh” viết: “Nếu như người ta thường ăn mật ong, có thể trường thọ”; Ở Hy Lạp thì mật ong được coi là một loại thực vật thần, nên họ dùng mật ong để tế thần. Người Cổ Hy Lạp và Cổ Ai Cập đã biết dùng mật ong ướp xác, ngay trong Kim Tự Tháp cũng đã có nhiều dấu tích nói về cách dùng và chữa bệnh bằng mật ong. Những sự thực này nói lên cả trong và ngoài nước đều có những đánh giá cao về công dụng của mật ong.


Nguồn: suaongchuavn